Tore Klas Agne Simonsson (19 tháng 10 năm 1935 – 22 tháng 9 năm 2020) ) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Thụy Điển chơi ở vị trí tiền đạo . Bắt đầu sự nghiệp tại Örgryte IS vào năm 1953, ông đại diện cho Real Madrid và Real Sociedad ở La Liga vào đầu những năm 1960 trước khi trở lại Örgryte vào năm 1963. Simonsson đã có 51 lần khoác áo đội tuyển quốc gia Thụy Điển và là thành viên của đội tuyển quốc gia Thụy Điển. đội về nhì tại FIFA World Cup 1958 . Ông cũng được trao Huy chương vàng Svenska Dagbladet vào năm 1959 sau màn trình diễn ngoạn mục cho Thụy Điển trong trận đấu quốc tế với Anh tại Sân vận động Wembley. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu thông tin chi tiết để trả lời cho câu hỏi Agne Simonsson là ai được tham khảo từ xoilac qua bài viết sau đây nhé !
Agne Simonsson là ai?
Thông tin cá nhân | |||
---|---|---|---|
Họ và tên | Xé Klas Agne Simonsson | ||
Ngày sinh | Ngày 19 tháng 10 năm 1935 | ||
Nơi sinh | Gothenburg , Thụy Điển | ||
Ngày giỗ | Ngày 22 tháng 9 năm 2020 (84 tuổi) | ||
Nơi chết | Gothenburg, Thụy Điển | ||
(Các) vị trí | Tiền đạo | ||
Sự nghiệp tuổi trẻ | |||
BK René | |||
Sự nghiệp cao cấp* | |||
Năm | Đội | Số trận | Kiến tạo |
1953-1960 | Orgryte LÀ | 42 | (25) |
1960-1963 | Real Madrid | 3 | (1) |
1961-1962 | Real Sociedad | 22 | (số 8) |
1963-1970 | Orgryte LÀ | 120 | (80) |
Tổng cộng | 187 | (114) | |
Sự nghiệp quốc tế | |||
1957 | Thụy Điển U21 | 1 | (3) |
1957-1967 | Thụy Điển | 51 | (27) |
Sự nghiệp điều hành | |||
1971-1972 | Orgryte LÀ | ||
1977-1982 | Hack BK | ||
1983-1986 | Orgryte LÀ | ||
1988-1990 | Iraklis | ||
▾ Kỷ lục huy chương
|
|||
*Số lần ra sân và ghi bàn ở giải vô địch quốc gia cấp câu lạc bộ |
Đội tuyển bóng đá quốc gia Thụy Điển năm 1961 với các cầu thủ – từ trái sang phải, đứng: Bengt “Fölet” Berndtsson , Torbjörn Jonsson , Åke “Bajdoff” Johansson , Agne Simonsson , Rune Börjesson và Lennart Backman ; cúi mình: Olle “Lappen” Hellström , Orvar Bergmark , Bengt “Zamora” Nyholm , Lennart Wing và Gösta “Knivsta” Sandberg .
Sự nghiệp câu lạc bộ của Agne Simonsson
Orgryte LA
Simonsson chơi bóng đá trẻ cho BK René trước khi ký hợp đồng với Örgryte IS năm 1949. Ông có trận ra mắt cấp cao cho Örgryte vào năm 1953, khi đội chơi ở Division 3 . Ông đã giúp đội giành quyền thăng hạng lên Division 2 vào năm 1955 và sau đó giành quyền thăng hạng lên Allsvenskan vào năm 1958 với Gunnar Gren là cầu thủ kiêm huấn luyện viên . Tại Örgryte IS, ông đứng thứ năm trong cuộc bầu chọn Quả bóng vàng năm 1959 và được trao giải Guldbollen năm 1959.
Real Madrid
Được nhiều người đánh giá là tiền đạo trung tâm xuất sắc nhất thế giới sau chuỗi màn trình diễn ấn tượng cho đội tuyển quốc gia Thụy Điển, Simonsson được đội bóng La Liga Real Madrid ký hợp đồng vào năm 1960. Tuy nhiên, sự cạnh tranh khốc liệt từAlfredo Di Stéfano đã hạn chế cơ hội ra sân của Simonsson tại câu lạc bộ và anh chỉ chơi ba trận ở giải VĐQG trong mùa giải La Liga 1960–61 , ghi một bàn giúp Real Madrid lên ngôi vô địch . Bàn thắng duy nhất của anh là bàn thắng thứ ba vào lưới Real Zaragoza trong chiến thắng 5–1 trên sân nhà ở vòng 9. Ông cũng là thành viên của đội Real Madrid đã giành được Cúp Liên lục địa 1960 và La Liga 1962–63 , nhưng không được thi đấu lần nào. Simonsson là người Thụy Điển duy nhất từng đại diện cho Real Madrid.
Real Sociedad
Trong mùa giải La Liga 1961–62 , Simonsson được cho Real Sociedad mượn, đội mà anh đã ghi 8 bàn sau 22 trận đấu ở giải VĐQG. Tuy nhiên, vào cuối mùa giải, Simonsson buộc phải chứng kiến đội bóng của mình phải xuống hạng, khi đội đứng thứ 15/16 đội trên BXH.
Trở lại Örgryte IS
Năm 1963, Simonsson trở lại Thụy Điển và Örgryte IS để thiết lập mối quan hệ hợp tác tấn công đáng sợ với Rune Börjesson . Simonsson là cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất giải đấu cho Örgryte IS với tổng cộng 206 bàn thắng.
Sự nghiệp quốc tế của Agne Simonsson
Simonsson xuất hiện lần duy nhất cho đội U21 Thụy Điển vào ngày 22 tháng 9 năm 1957 trong trận giao hữu với Phần Lan , ghi một hat-trick trong chiến thắng 7–0. Anh có trận ra mắt quốc tế đầy đủ cho Thụy Điển một tháng sau đó vào ngày 13 tháng 10 năm 1957 trong trận đấu tại Giải vô địch bóng đá Bắc Âu 1956–59 gặp Na Uy , ghi hai bàn giúp Thụy Điển thắng 5–2.
Giải vô địch bóng đá thế giới 1958
Simonsson ghi bốn bàn giúp Thụy Điển lọt vào trận chung kết FIFA World Cup 1958 trên sân nhà, trong đó có bàn thắng trong trận chung kết khi Thụy Điển thua Brazil 2–5.
Sự nghiệp sau này
Ông đã được trao Huy chương vàng Svenska Dagbladet năm 1959 cũng như Guldbollen năm 1959 sau màn trình diễn trước Anh vào ngày 28 tháng 10 năm 1959 khi Thụy Điển đánh bại Anh 3–2 tại Sân vận động Wembley và Simonsson ghi hai bàn và thực hiện một đường chuyền quyết định . Đây chỉ là lần thứ hai trong lịch sử một đội đánh bại Anh tại Wembley.
Anh ấy đã giành được lần khoác áo thứ 51 và cũng là trận cuối cùng trong chiến thắng 2–0 trước Phần Lan vào ngày 10 tháng 8 năm 1967 tại Giải vô địch bóng đá Bắc Âu 1964–67 . Anh đã ghi tổng cộng 27 bàn thắng quốc tế.
Sự nghiệp huấn luyện viên của Agne Simonsson
Năm 1982, ông dẫn dắt BK Häcken giành quyền thăng hạng trong mùa giải đầu tiên ở Allsvenskan . Với tư cách là người quản lý của Örgryte IS, Simonsson đã dẫn dắt đội đến chức vô địch Thụy Điển vào năm 1985 , giúp họ giành chức vô địch giải đấu đầu tiên kể từ năm 1913 .
Trên đây là tất cả thông tin chi tiết giúp bạn trả lời cho câu hỏi Agne Simonsson là ai mà chúng tôi tổng hợp được từ cakhia . Hi vọng bài viết này sẽ hữu ích với bạn. Cảm ơn các bạn đã theo dõi.