Ubaldo Matildo Fillol ( [uˈβaldo maˈtildo fiˈʎol] ; sinh ngày 21 tháng 7 năm 1950), biệt danh el Pato (tiếng Anh: “the Duck”), là một huấn luyện viên bóng đá người Argentina và là cựu thủ môn . Anh đã tham gia vào các năm 1974 , 1978 (nơi anh giành chức vô địch cùng đội của mình và được bầu chọn là thủ môn xuất sắc nhất) và World Cup 1982 đại diện cho đội tuyển quốc gia Argentina . Anh cũng tham dự vòng loại Nam Mỹ cho World Cup 1986 , nhưng cuối cùng không được chọn vào trận chung kết (và giành chiến thắng) ở Mexico. Anh ấy thường được coi là một trong những thủ môn vĩ đại nhất và thường được coi là thủ môn người Argentina xuất sắc nhất mọi thời đại. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu thông tin chi tiết để trả lời cho câu hỏi Ubaldo Fillol là ai được tham khảo từ xoilac qua bài viết sau đây nhé !
Ubaldo Fillol là ai?
Thông tin cá nhân | |||
---|---|---|---|
Họ và tên | Ubaldo Mathildo Fillol | ||
Ngày sinh | 21 tháng 7 năm 1950 (73 tuổi) | ||
Nơi sinh | San Miguel del Monte , Buenos Aires , Argentina |
||
Chiều cao | 1,81 m (5 ft 11 + 1 ⁄ in) | ||
(Các) vị trí | thủ môn | ||
Sự nghiệp cao cấp* | |||
Năm | Đội | Số trận | Kiến tạo |
1965-1971 | Quilmes | 57 | (0) |
1971-1973 | Racing Club | 59 | (0) |
1973-1983 | River Plate | 360 | (0) |
1983-1984 | Argentina Juniors | 17 | (0) |
1984-1985 | Fire | 34 | (0) |
1985-1986 | Atlético Madrid | 17 | (0) |
1986-1989 | Racing Club | 71 | (0) |
1989-1991 | Velez Sarsfield | 42 | (0) |
Tổng cộng | 657 | (0) | |
Sự nghiệp quốc tế | |||
1974-1985 | Argentina | 58 | (0) |
Sự nghiệp điều hành | |||
2004 | Câu lạc bộ điền kinh | ||
▾ Kỷ lục huy chương
|
|||
*Số lần ra sân và ghi bàn ở giải vô địch quốc gia cấp câu lạc bộ |
Tiểu sử của Ubaldo Fillol
Sinh ra ở San Miguel del Monte , Fillol bước những bước đầu tiên với vai trò thủ môn tại một câu lạc bộ nghiệp dư trong thành phố, nơi anh đã trải qua bốn năm. Cựu cầu thủ và huấn luyện viên River Plate, Renato Cesarini , được cho là người cố vấn của anh ấy, đã từng chứng kiến anh ấy thi đấu ở giải khu vực. Năm 1965, Fillol đến Quilmes AC để chơi ở đội trẻ của câu lạc bộ. Ở tuổi 18, Fillol có trận ra mắt ở Primera División (giải hạng nhất Argentina) khi chơi cho Quilmes gặp Huracán , vào ngày 1 tháng 5 năm 1969. Anh nhanh chóng thu hút sự chú ý của công chúng nhờ sự nhanh nhẹn và phản xạ nhanh nhạy của mình. nhào lộn cứu thua.
Sự nghiệp của Ubaldo Fillol
Trong giải vô địch Metropolitano năm 1970, Fillol đã cản phá được cú sút trúng đích đầu tiên trong sự nghiệp vào lưới tiền đạo Delio Onnis của Gimnasia y Esgrima LP . Cùng năm đó, Quilmes bị xuống hạng ở Primera B , nơi Fillol sẽ chơi 23 trận với câu lạc bộ. Năm 1972, Fillol được Racing Club de Avellaneda thuê, ra mắt lần đầu tiên tại Metropolitano năm 1972 . Ở chức vô địch này, Fillol đã lập kỷ lục có 6 pha cản phá khung thành , cao nhất bóng đá Argentina trong một mùa giải.
Năm 1973, Fillol chuyển đến River Plate , nơi anh sẽ chơi phần lớn sự nghiệp của mình. Tại River Plate, Fillol đã giành được bảy danh hiệu, trong đó có giải Metropolitano năm 1975, đồng nghĩa với danh hiệu đầu tiên của câu lạc bộ sau 18 năm không có chức vô địch. Năm 1977, Fillol được vinh danh là Cầu thủ xuất sắc nhất năm của Argentina , trở thành thủ môn đầu tiên nhận được danh hiệu này. Anh được gọi vào đội tuyển quốc gia Argentina , nơi anh là thành viên của đội tham dự World Cup 1974 (các thủ môn khác là Daniel Carnevali và Miguel Ángel Santoro ). Màn trình diễn đáng chú ý nhất của Fillol với Argentina là vào năm 1978 , khi anh giành được chiếc Cúp đầu tiên cùng đội cũng như được chọn là thủ môn xuất sắc nhất giải đấu. Năm 1983, sau một cuộc xung đột với ban quản lý River Plate (trong thời gian đó ông đã cân nhắc việc từ giã hoạt động), Fillol được chuyển đếnArgentinos Juniors theo yêu cầu của Ángel Labruna (lúc đó đang quản lý Argentinos Juniors). Fillol đã chơi 17 trận ở đó. Vào tháng 11 cùng năm, anh chuyển đến Brazil để chơi cho Flamengo , nơi anh giành chức vô địch Taça Guanabara cùng câu lạc bộ vào năm 1984.
Sự ra mắt của Fillol ở bóng đá châu Âu là vào năm 1985 khi anh được chuyển đến Atlético Madrid ở tuổi 35. Với Fillol làm thủ môn, câu lạc bộ đã giành được Supercopa de España năm 1985 . Năm 1986, Fillol trở lại Racing , nơi anh giành chức vô địch Supercopa Sudamericana lần đầu tiên vào năm 1988 , cũng là danh hiệu quốc tế đầu tiên của câu lạc bộ sau Cúp Liên lục địa 1967.
Ở tuổi 40, Fillol từ giã sự nghiệp bóng đá và kết thúc sự nghiệp của mình tại Vélez Sarsfield trong trận đấu cuối cùng của giải vô địch Apertura 1990 , vào ngày 22 tháng 12 năm 1990 tại Estadio Monumental , khi đội khách đánh bại River Plate địa phương với tỷ số 2-1. Fillol đã có màn trình diễn xuất sắc, thậm chí cản phá được cú sút trúng khung thành của tiền đạo Rubén da Silva . Fillol cũng giữ kỷ lục cản phá được 26 quả phạt đền, cao nhất bóng đá Argentina, chia sẻ kỷ lục này với Hugo Gatti.
Sau khi nghỉ hưu, Fillol làm huấn luyện viên thủ môn cho đội tuyển quốc gia Argentina, trước khi trở thành huấn luyện viên Racing Club vào năm 2003. Sau một thời gian ngắn làm huấn luyện viên Racing, Fillol trở lại vai trò huấn luyện viên thủ môn của Argentina, đồng thời làm việc tại FIFA World Cup 2006 . Tuy nhiên, Fillol đã rời nhiệm sở khi José Pekerman từ chức huấn luyện viên đội tuyển Argentina.
Fillol tiếp tục sự nghiệp huấn luyện viên thủ môn của River Plate, nhưng ông đã từ chức sau trận đấu với San Lorenzo khi Juan Pablo Carrizo từ chối nhận cử chỉ ủng hộ của ông sau một lỗi khiến đội đối thủ ghi bàn. Fillol khẳng định cảm thấy “bẽ mặt” trước Carrizo và bày tỏ mong muốn tiếp tục ở câu lạc bộ nhưng chỉ làm việc với các cầu thủ trẻ như trước đây. Cuối cùng, Fillol sẽ trở lại River Plate vào năm 2014, với tư cách là giám đốc bộ phận thủ môn của câu lạc bộ.
Trong sự nghiệp của mình tại River Plate , anh ấy là đối trọng của Hugo Orlando Gatti , một thủ môn vĩ đại khác của Argentina từng chơi trong đội đối phương, Boca Juniors . Fillol luôn là hình ảnh của sự chuyên nghiệp và nghiêm túc; Ngược lại, “Người điên” Gatti lại có vẻ ngoài lập dị, không chính thống.
Giai thoại về Ubaldo Fillol
Tại World Cup 1978, Fillol mặc áo số 5, thay vì số 1 vốn là tiêu chuẩn dành cho thủ môn. Điều này xảy ra bởi vì Argentina vào thời điểm đó đã cấp số cho các cầu thủ theo thứ tự bảng chữ cái. Chiếc áo số 1 được mặc bởi tiền vệ tấn công Norberto Alonso . Vì lý do tương tự, Fillol mặc áo số 7 ở giải đấu năm 1982 trong khi Osvaldo Ardiles (một tiền vệ khác) mặc áo số 1. Cách làm này được cho phép lần cuối vào năm 1986, khi FIFA tuyên bố rằng chỉ các thủ môn mới được mặc áo số 1.